Những nhà phát minh Sinh Nghề Tử Nghiệp

Không ít nhà khoa học dốc sạch tâm huyết và sức lực phát minh ra những thứ để đời cho nhân loại, nhưng chính “đứa con cưng” ấy lại cướp đi sinh mạng của họ.

Marie Curie (1867 – 1934) là nhà khoa học Pháp gốc Ba Lan. Người phụ nữ này đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu về tính phóng xạ, phát hiện ra hàng loạt các nguyên tố hóa học mới, bao gồm Radium và Polonium.

Năm 1903, bà cùng chồng mình là Pierre Curie nhận giải Nobel. Khi ấy, tính chất phá hủy tế bào của các nguyên tố phóng xạ vẫn chưa được phát hiện, nên trong lúc làm việc, Marie Curie không sử dụng bất kỳ biện pháp bảo hộ nào. Thậm chí, có lúc bà còn để ống nghiệm chứa nguyên tố phóng xạ vào trong ngăn kéo hoặc túi áo mình. Sau thời gian dài tiếp xúc với các chất phóng xạ, Marie Curie mất ngày 4/7/1934 và nguyên nhân được cho là vì chứng thiếu máu ác tính. Khi ấy, bà mới 67 tuổi. Hiện nay, cái chết của nữ khoa học gia nổi tiếng này được xác định là do phơi nhiễm chất phóng xạ.

Thomas Midgley (18/5/1889 – 2/11/1944) là một nhà hóa học người Mỹ. Ông nổi tiếng trong giới khoa học vì phát minh ra xăng pha chì và hóa chất tổng hợp chlorofluorocarbon (CFC). Vì những phát minh của mình, Midgley còn bị cho là “người liên quan tới nhiều ca tử vong nhất trong lịch sử”.

Về sau ông mắc bệnh bại liệt và nhiễm độc chì nặng, phải nằm liệt giường. Nhằm chống chọi với bệnh tật, Thomas Midgley đã phát minh ra hệ thống dây và ròng rọc trơn giúp mình dậy khỏi giường một cách thuận tiện hơn. Nhưng chính sáng chế này đã cướp đi mạng sống của nhà khoa học. Ở tuổi 55, ông bị ngạt thở đến chết vì vướng vào hệ thống dây nhợ và ròng rọc phức tạp trên giường.

Parry Thomas là một tay đua ô tô và một kỹ sư nổi tiếng xứ Wales. Ông luôn mơ tưởng sẽ phá vỡ kỷ lục về tốc độ lái xe của Malcolm Campbell. Thomas đã tự mình thiết kế một chiếc ô tô để biến ước mơ thành hiện thực. Cuối cùng, chiếc xe đã hoàn thành. Ông đặt tên “con cưng” của mình là Babs. Thomas đã có những cải tiến mang tính đột phá với chiếc xe , đặc biệt là thiết kế xích xe hở khi kết nối bánh xe với các động cơ.

Ngày 27/4/1926, Parry Thomas phá vỡ kỷ lục thế giới về tốc độ lái xe, ngày hôm sau ông lại tiếp tục đẩy tốc độ lên mức 170km/giờ. Một năm sau, Malcolm Campbell đã phá vỡ kỷ lục mà Thomas lập được. Khi ông đang nỗ lực để lập nên một kỷ lục mới, chiếc xích xe bỗng dưng bị đứt, một phần xích văng mạnh vào người, khiến ông tử vong ngay tại chỗ.

William Bullock là một nhà phát minh người Mỹ. Năm 1863, ông phát minh ra một loại máy in quay hoạt động với tốc độ nhanh, hiệu quả cao. Phát minh này đã tạo nên một cuộc cách mạng triệt để cho ngành in ấn của nhân loại. Vào một lần khi đang sửa chữa chiếc máy in nói trên, ông mạo hiểm đưa một chân vào dưới máy, định đẩy ròng rọc vào đúng vị trí. Không may, chân ông đã bị thương và dẫn tới hoại thư. William Bullock chết trong khi đang được phẫu thuật cưa chân.

Kỹ sư người Đức Otto Lilienthal (23/5/1848 – 10/8/1896) là người đi tiên phong trong lĩnh vực hàng không dân dụng trên thế giới. Ông cũng là người đầu tiên thiết kế thành công chiếc tàu lượn. Ông được mọi người ca ngợi là “ông vua bay lượn”.

Nhà phát minh này đã biến ước mơ chế tạo thành công một công cụ bay liệng trên không trung suốt bao đời của nhân loại thành hiện thực. Nhưng thành công ấy lại phải trả giá quá đắt. Năm 1896, khi Lilienthal đang thực hiện chuyến bay của mình, thì tàu lượn gặp phải gió to rồi trở nên mất kiểm soát, đâm sầm xuống đất. Nhà phát minh bị thương rất nặng. Ngày hôm sau, ông mất. Trong cơn hấp hối, Otto nói với Gustav – em trai mình, rằng: “Cần phải có những sự hy sinh nhỏ bé”.

Franz Reichelt là một thợ may người Áo. Ông thiết kế ra chiếc áo choàng có hoạt động như chiếc dù ngày nay và tự tin tuyên bố, khi mặc nó, mọi người có thể đi lại một cách nhẹ nhàng, thậm chí bay liệng trên không trung.

Để chứng minh tác dụng thần kỳ của phát minh này, Reichelt làm một thí nghiệm khá dại dột. Ông khoác lên người “kiệt tác” của mình rồi nhảy từ tầng trên cùng của tháp Eiffel xuống dưới. Lúc bấy giờ, rất đông người dân và phóng viên ảnh tụ tập tại đây để chứng kiến sự việc. Nhưng thật bất hạnh, tác phẩm của Reichelt không hề phát huy tác dụng kỳ diệu như ông mong mỏi. Thử nghiệm hoàn toàn thất bại và người thợ may đã mất mạng sau cú rơi thẳng từ trên cao xuống.

Karel Soucek là một diễn viên đóng thế của Canada. Ông phát minh ra một chiếc “khoang kín”, tức cap-xun, ngồi vào trong và bay từ trên thác Niagara xuống. Từ đó, tên tuổi ông bắt đầu “nổi như cồn”. Trong lần biểu diễn này, Soucek tuy bị thương nhẹ nhưng không nguy hiểm tới tính mạng.

Vào năm 1985, ông ta thuyết phục một công ty hào phóng tài trợ cho cuộc thử nghiệm mạo hiểm khác của mình tại Texas. Lần này, Soucek lăn tự do theo thác nước. Phía dưới thác là một hồ chứa nước. Nhưng mọi chuyện không diễn ra suôn sẻ, may mắn như lần trước. Khi tiếp nước, Soucek không rơi vào lòng hồ mà đập vào thành. Chiếc cap-xun vỡ nát, còn chủ nhân của nó thì bị thương nặng và qua đời ngay ngày hôm sau.

Cowper Phipps Coles là một thượng úy Hải quân ưu tú của Hoàng gia Anh trước đây. Trong thời gian xảy ra chiến tranh vùng Crimea, ông đã phát minh ra tháp pháo cho tàu chiến. Sau khi chiến tranh kết thúc, Coles được cấp bằng sáng chế cho phát minh này. Khi nhận ra “con cưng” của mình được Hải quân Hoàng gia vận dụng rất tốt, ông cố gắng tận dụng thiết kế ấy để tạo ra con tàu của riêng mình. Coles có ý định làm ra một “boong tàu bão tố”, giúp tăng trọng tâm của tàu.

Ngày 6/9/1870, con tàu HMS Captain của Coles chính thức hạ thủy, đem theo ông và hơn 500 thủy thủ tham gia chuyến khởi hành đầu tiên. Nhưng thảm họa đã ập đến khi con tàu bị lật, khiến ông và những người cùng đi rơi xuống nước và tử nạn.

Alexander Bogdanov là nhà vật lý học, triết học, kinh tế học, tiểu thuyết gia khoa học viễn tưởng và nhà cách mạng nổi tiếng của Nga. Một trong những thí nghiệm nổi bật của ông là tái tạo cơ thể, nhằm đạt được mục tiêu “cải lão hoàn đồng” thông qua phương pháp truyền máu.

Ông đã truyền máu cho rất nhiều danh nhân có tiếng thời bấy giờ, trong số ấy phải kể đến em gái của Lê-nin. Về sau, Bogdanov đưa ra một quyết định rất liều lĩnh: truyền máu cho chính mình. Nguồn máu lấy từ một bệnh nhân bị lao và sốt rét. Chẳng bao lâu sau, nhà khoa học đa tài này chết do bị nhiễm virus gây bệnh.

Henry Winstanley là một kiến trúc sư, kỹ sư nổi tiếng của Anh. Ông chính là người đã thiết kế ra ngọn hải đăng Eddystone đầu tiên và rất mực đề cao tác phẩm của mình. Henry Winstanley tin tưởng vào mức độ chắc chắn của ngọn hải đăng tới nỗi luôn ước ao ở trong nó vào lúc xảy ra “cơn bão lớn nhất trong lịch sử” nhân loại.

Tháng 11/1703, ước nguyện có phần kỳ quái của Henry Winstanley thành hiện thực. Ngọn đèn biển Eddystone đã phải hứng chịu sự hủy diệt tàn bạo của một cơn bão khủng khiếp tại Anh. Đúng lúc ấy, Winstanley đang tiến hành một số tu sửa bên trong Eddystone. Ngọn đèn biển đã hoàn toàn sụp đổ, cướp đi sinh mạng của Winstanley cùng 5 người khác bên trong nó.

Tags: , , , , , , , , ,

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

*
*